Hiệu ứng bắt kịp (Catch-Up Effect) là gì? Ví dụ về hiệu ứng bắt kịp
Mục Lục
Hiệu ứng bắt kịp
Hiệu ứng bắt kịp trong tiếng Anh là Catch-Up Effect.
Hiệu ứng bắt kịp là một líý thuyết suy đoán rằng các nền kinh tế nghèo hơn có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn các nền kinh tế giàu có, và vì vậy tất cả các nền kinh tế cuối cùng sẽ hội tụ về thu nhập bình quân đầu người. Nói cách khác, các nền kinh tế nghèo hơn sẽ "bắt kịp" các nền kinh tế mạnh hơn theo nghĩa đen.
Hiệu ứng bắt kịp được xác định dựa trên một vài ý tưởng chính.
Một là qui luật giảm lợi nhuận cận biên - cho rằng khi một quốc gia đầu tư và thu về lợi nhuận, số tiền thu được từ khoản đầu tư dần dần sẽ có giá trị thấp hơn chính khoản đầu tư ban đầu. Mỗi lần một quốc gia đầu tư, lợi ích họ thu về từ khoản đầu tư đó lại càng ít đi. Vì vậy, lợi nhuận từ đầu tư vốn vào các nước giàu không lớn như ở các nước đang phát triển.
Các nước nghèo cũng có lợi thế vì có thể sao chép phương thức sản xuất, công nghệ và thể chế của các nước phát triển. Bởi vì các thị trường đang phát triển có khả năng tiếp cận vào bí quyết công nghệ của các quốc gia tiên tiến, chúng thường có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng.
Hạn chế của hiệu ứng bắt kịp
Tuy nhiên, mặc dù các nước đang phát triển có thể có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước phát triển, những hạn chế do thiếu vốn có thể làm giảm đáng kể khả năng bắt kịp của chúng.
Nhà kinh tế Moses Abramowitz đã viết về những hạn chế của hiệu ứng bắt kịp. Ông nói rằng để các quốc gia được hưởng lợi từ hiệu ứng bắt kịp, chúng sẽ cần phát triển và tận dụng cái mà ông gọi là "khả năng xã hội", bao gồm khả năng hấp thụ công nghệ mới, thu hút vốn và tham gia vào thị trường toàn cầu. Điều này có nghĩa là nếu công nghệ không được giao dịch tự do hoặc quá đắt đỏ, thì hiệu ứng bắt kịp sẽ không xảy ra.
Theo một nghiên cứu dài hạn của nhà kinh tế Jeffrey Sachs và Andrew Warner, các chính sách kinh tế quốc gia về thương mại tự do và cởi mở đóng vai trò quan trọng trong hiệu ứng bắt kịp.
Khi nghiên cứu 111 quốc gia từ 1970 đến 1989, họ phát hiện ra rằng các quốc gia công nghiệp hóa có tốc độ tăng trưởng 2,3% / năm / đầu người, trong khi các nước đang phát triển có chính sách thương mại mở có tốc độ 4,5% và các nước đang phát triển có nền kinh tế bảo hộ và khép kín hơn thì tốc độ tăng trưởng chỉ là 2%.
Ví dụ về hiệu ứng bắt kịp
Trong giai đoạn từ 1911 đến 1940, Nhật Bản là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Nhật Bản thuộc địa hóa và đầu tư mạnh vào Hàn Quốc và Đài Loan, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của chính nước này.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá. Nhật Bản đã xây dựng lại một môi trường bền vững để tăng trưởng kinh tế trong những năm 1950 và bắt đầu nhập khẩu máy móc và công nghệ từ Mỹ. Nhật đạt tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc trong giai đoạn từ năm 1960 đến đầu những năm 1980.
Ví dụ, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản từ năm 1960 đến 1978 là 9,4%, trong khi Mỹ và Anh có tốc độ tăng trưởng lần lượt là 3,1% và 2,4%. Vào cuối những năm 1970, khi nền kinh tế Nhật Bản được xếp hạng trong số 5 quốc gia hàng đầu thế giới, tốc độ tăng trưởng của nước này đã chậm lại từ 2% đến 2,7%.
(Theo investopedia)