Gặp người tiên phong mở siêu thị quốc doanh tại Hà Nội
70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024) cũng ghi nhận quãng thời gian chuyển mình của ngành thương mại Hà Nội. Phóng viên, báo chí đã có cuộc trao đổi với người tiên phong đưa mô hình bán lẻ hiện đại vào ngành thương mại quốc doanh của Thủ đô những năm đầu hội nhập -ông Vũ Vinh Phú - Nguyên Phó Giám đốc Sở Thương mại Hà Nội (1999 - 2005) sau này làm Chủ tịch Hội siêu thị Hà Nội.
Bắt "trend" xu hướng thương mại hiện đại
Thưa ông, là người tiên phong đưa mô hình bán lẻ hiện đại vào ngành thương mại quốc doanh của Thủ đô những năm đầu hội nhập, ông có thể chia sẻ cụ thể về câu chuyện này?
Năm 1995, khi đó đang đảm nhận Bí thư Đảng ủy Công ty Bách hóa Hà Nội kiêm Phó Giám đốc Công ty, sau khi tham gia đoàn đi công tác Singapore, Malaysia, Thái Lan về tôi nhận thấy mô hình siêu thị của họ rất hay. Tại Việt Nam, khi đó, ví dụ như chúng ta đi mua đôi dép, chủ cửa hàng sẽ đưa cho khách hàng 1 chiếc dép để thử còn 1 chiếc thì cất dưới quầy. Nhưng tại Singapore, mọi người chỉ cần xách giỏ đi chọn hàng và sau đó ra thanh toán tại quầy thanh toán chỉ mất vài phút, rất tiện lợi. Vì thế, quyết định mở Trung tâm thương mại quốc doanh đầu tiên ở Thủ đô (kiểu bán hàng tự chọn) đã thôi thúc tôi phải nhanh chóng thực hiện.
Sau khi được Ban Giám đốc “bật đèn xanh,” chỉ sau 3,5 tháng, một Trung tâm thương mại quốc doanh đầu tiên được khai trương tại số 7 Đinh Tiên Hoàng, Hoàn Kiếm (tháng 11/1995) với hình thức bán hàng tự chọn đầu tiên của Hà Nội.
Điểm nổi bật ở đây chính là hàng hóa đa dạng, với gần 1.200 mặt hàng, từ đồ gia dụng, rau, củ quả, thực phẩm được sắp xếp bắt mắt và quyền lợi của khách hàng được phục vụ cao nhất.
Thời điểm bắt tay vào làm, chúng tôi không mường tượng nổi việc áp dụng mã vạch, mã số với hàng hóa ra sao, quy trình nhập hàng như thế nào. Chúng tôi mời kỹ sư công nghệ thông tin (IT) đến giúp, họ thiết kế phần mềm quản lý nhập hàng và tiền hàng đến cuối ngày sẽ tổng kết lại.
Thời gian đầu, khi mở trung tâm thương mại, người dân Hà Nội đến rất đông do đây là mô hình rất lạ, mua bán thoải mái, hàng hóa phong phú, chỉ tội địa điểm hơi chật chội. Thậm chí, khách hàng vào mấy nghìn lượt/ngày, đến nỗi, mòn cả đá, chúng tôi phải thay. Tuy nhiên, họ đến để xem chứ không mua mấy. Dần dần lượng người xem bớt đi và lượng người mua tăng. Doanh thu các tháng sau này đã lên cả chục tỷ đồng (năm 1995-1996).
Từ thành công tại điểm bán số 7 Đinh Tiên Hoàng, chỉ sau 7 tháng, Công ty Bách hóa Hà Nội đã mở thêm một loạt các điểm bán hàng tại Giảng Võ, Thanh Xuân, hướng dẫn Intimex mở siêu thị...
Đặc biệt, thời đó, chưa có camera giám sát nên việc quản lý hàng hóa rất khó. Khi đó, tôi đã bàn với Ban Giám đốc làm các ống nứa treo vào các góc của siêu thị (giả làm camera) cùng với sự hỗ trợ của Công an kinh tế mặc thường phục để giám sát việc mua bán hàng đã giúp giảm hẳn việc mất hàng hóa (chỉ còn 1,5 phần nghìn) khiến nhiều người đã tìm đến tôi để học học kinh nghiệm làm siêu thị.
Hầu như các siêu thị của doanh nghiệp nội đều do tôi hướng dẫn cách làm, từ đó nhân rộng ra. Đến bây giờ Hà Nội đã có hơn 100 siêu thị trong khi năm 1995-1996 chỉ một mình đơn phương độc mã cùng chợ Hôm có một điểm trung tâm thương mại của tư nhân.
Rõ ràng, sự thay đổi giữa cách làm cũ và mới là điều không dễ, đâu là yếu tố đem lại thành công tại điểm bán số 7 Đinh Tiên Hoàng, thưa ông?
Tôi cho rằng, đó chính là ở tư duy và cách quản lý của người lãnh đạo. Thời điểm đó, nhân viên Công ty Bách hóa có 45 người, nhưng với mô hình mới (giữ 1/3 từ thời bao cấp và 2/3 tuyển nhân viên thành thạo máy tính và có kỹ năng chuyên môn tốt) đã giúp năng suất lao động tại cửa hàng cao gấp 4 lần mô hình thương mại cũ. Nhờ vậy, thu nhập cán bộ và nhân viên của công ty cũng được cải thiện hơn, thậm chí còn thừa vốn cho Công ty xây lắp thương mại trong ngành thương mại vay để xây nhà kinh doanh.
Lúc đó, chúng tôi suy nghĩ đây là mô hình mới và rất văn minh nên hàng hóa càng ít khâu trung gian càng hiệu quả. Bắt tay vào làm, trong việc lựa chọn nguồn hàng, chúng tôi hầu như toàn bán hàng ký gửi, bán xong 10-15 ngày mới phải thanh toán, sau đó viết hóa đơn giá trị gia tăng (VAT). Như vậy, vốn không mất, chỉ mất chi phí quản lý nội bộ, chiết khấu cũng chỉ 15%, thấp hơn nhiều so với nhiều doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng.
Với quan điểm “mua tận gốc, bán tận ngọn” nên khi ấy mức chiết khấu 15% là “vỗ tay-thắng lớn rồi” vì chi phí nội bộ chỉ 5%. Để có thể làm được việc này, chúng tôi phải trực tiếp đi vào các tỉnh phía Nam để mua chè, mướp đắng về bán (cả bán lẻ, bán buôn), tức là mua hàng tận gốc không qua trung gian.
Hơn nữa, để chọn nhà cung ứng và có được hơn 1.000 mặt hàng vào bán, chúng tôi cho đăng trên phương tiện thông tin đại chúng, đơn vị nào có nhu cầu và hàng hóa, nếu đạt được tiêu chuẩn, chất lượng của công ty và đủ hóa đơn chứng từ sẽ mang đến công ty theo hình thức ký gửi.
Trước khi tôi chuyển lên Sở Thương mại (năm 1999), Công ty Bách hóa đã có 368 bạn hàng (rau củ, thịt, socola…), doanh số bán tốt, 10 ngày thanh toán/lần, đội ngũ nhân viên rất chuyên nghiệp.
Đặc biệt, giá nhiều mặt hàng trong cửa hàng số 7 Đinh Tiên Hoàng còn rẻ hơn ngoài thị trường vì mặt hàng nào mua nhiều, bán nhiều giá sẽ thấp, như chè khổ qua, mướp đắng. Chủ trương của chúng tôi là cắt trung gian để giảm giá trị chứ không ép nhà cung cấp. Hơn nữa, vào siêu thị mua hàng mát mẻ, hàng đảm bảo chất lượng, được lựa chọn thoải mái, mua có hóa đơn, khiếu nại rõ ràng, ưu thế hơn hẳn so với thương mại cũ.
Mô hình Trung tâm thương mại quốc doanh đầu tiên được khai trương tại số 7 Đinh Tiên Hoàng dù tiên phong nhưng đã thành công. Sự thành công này, tôi cho rằng, đầu tiên phải xuất phát từ người lãnh đạo, có chuyên môn, kỹ năng và sâu sát với công việc, nếu nhân viên mắc khuyết điểm sẽ điều chuyển ngay. Thậm chí 1 hộp tăm cũng vào thẻ làm công khai chính trực, không gian lận. Từ đó, tạo nề nếp trong công việc từ người cũ người mới.
Xây dựng thương hiệu bằng niềm tin yêu của khách hàng
Ông có thể chia sẻ một vài câu chuyện cụ thể về công tác quản lý, xây dựng thương hiệu cũng như giữ chữ tín trong kinh doanh?
Tôi cho rằng, tính nghiêm khắc là sự cần có trong công việc, chỉ cần các đồ trong siêu thị dính bụi thì cô lao công sẽ phải tạm nghỉ mấy tiếng (nhưng chỉ nghỉ 1 lần) và sau lần đó họ làm rất trách nhiệm, mọi việc đều ngăn nắp… Thông qua đó, tạo thái độ làm việc, chất lượng hàng hóa, môi trường và văn minh thương mại trong cửa hàng, xây dựng thương hiệu Đinh Tiên Hoàng vang xa.
Hay việc một khách hàng từ Hải Phòng đến mua hàng, chẳng may làm rơi vỡ một chiếc cốc, thay vì phải đền thì chúng tôi “nhận lỗi” về phía nhân viên cửa hàng do sắp xếp chưa khoa học. Thậm chí có khách hàng cao tuổi cầm 2 gói mì đến đổi trả, dù không có hóa đơn thanh toán nhưng vẫn được phục vụ tốt nhất và chỉ cần cách ứng xử văn minh như vậy đã có thể xây dựng “chữ tín” trong kinh doanh.
Tôi cho rằng, khách hàng tuyên truyền cho mình là tốt nhất không cần quảng cáo. Tôi thấm nhuần cho nhân viên về đạo đức kinh doanh, hàng có thể thiếu nhưng không thể thiếu sự trung thực, bất kỳ khiếu nại nào tự giải quyết được thì thôi còn vướng phải lên Ban Giám đốc, không để mất lòng khách hàng.
Để đấu tranh giữa cái cũ cái mới, tạo văn minh thương mại, thời đó chúng tôi đã tạo ra một môi trường làm việc để các nhân viên theo guồng làm việc mới, những cán bộ có tuổi có thể bố trí làm thủ quỹ thay vì phải trực tiếp bán hàng…
Ngày 30 Tết, lãnh đạo còn trực tiếp xuống cửa hàng động viên anh em, doanh số cứ vượt 100 triệu đồng thì thủ quỹ sẽ chi thưởng trực tiếp 20.000 đồng - người thực việc thực, đánh vào tinh thần và vật chất để động viên anh em, nên họ làm suốt ngày đêm.
Năm 1999, tôi chuyển công tác lên Sở Thương mại giữ chức Phó Giám đốc Sở Thương mại (phụ trách mảng thương mại nội địa gồm chợ và siêu thị của Hà Nội), lúc đó cơ ngơi của ngành thương mại Thủ đô đã có khoảng 20 siêu thị, còn chợ dân sinh cũng lên tới vài trăm.
Câu chuyện bách hóa tổng hợp ngày trước và siêu thị, cửa hàng tiện ích bây giờ được nhận định giống một bức tranh tương phản giữa cũ và mới. Theo ông, ngành thương mại cần thích ứng thế nào với hội nhập?
Kinh tế phát triển, hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng. Trước cơ hội mới, ngành thương mại Thủ đô cũng đón làn sóng đầu tư mạnh mẽ của nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới. Nhiều đại siêu thị như BiC (Thái Lan), Metro (Thái Lan); Lotte (Hàn Quốc) hay AEON (Nhật Bản) đều mở rộng hoạt động tại Việt Nam.
Với sự thay đổi này, người tiêu dùng Thủ đô cũng có nhiều cơ hội để trải nghiệm mua sắm, lựa chọn các mặt hàng từ nhiều quốc gia trên thế giới ngay tại sân nhà.
Song điều mà tôi trăn trở nhất chính là số lượng đại siêu thị của Việt Nam phát triển còn khiêm tốn, qui mô cũng nhỏ hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI. Vì thế, với tiềm năng vượt trội và trình độ quản lý tốt cộng với nguồn tài chính lớn, đặc biệt là uy tín về thương hiệu, các siêu thị ngoại đã hút được một lượng lớn khách hàng nội địa nhờ được nhiều ưu đãi và chăm sóc tốt hơn, nguồn hàng dồi dào, đa dạng hơn.
Đặc biệt, các chợ truyền thống, nơi chiếm tới 80% thực phẩm tươi sống, rau củ quả, nhưng nhiều nơi đang xuống cấp, do vậy, tôi mong muốn sự quan tâm của cơ quan chức năng nhiều hơn nữa để tạo ra sự thay đổi lớn cho ngành thương mại, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Bởi thương mại là nơi đón đầu ra của sản xuất, phục vụ Nhân dân nên nhu cầu tiêu dùng rất quan trọng. Chỉ số giá ổn định là do nông nghiệp và do hệ thống phân phối phát triển tốt, do vậy cần phải chăm chút những người tạo ra của cải cho xã hội.
Nguyễn Hạnh