Thuế thương vụ (Sales Tax) là gì? Đặc điểm
Mục Lục
Thuế thương vụ
Thuế thương vụ trong tiếng Anh là Sales Tax.
Thuế thương vụ hay thuế bán hàng là thuế tiêu thụ được chính phủ áp lên việc bán hàng hóa và dịch vụ.
Thuế thương vụ thông thường được đánh thuế tại điểm bán, được thu bởi nhà bán lẻ sau đó chuyển cho chính phủ.
Một doanh nghiệp chịu trách nhiệm thu thuế thương vụ ở một khu vực nhất định ở đó có sự kết hợp giữa các bên - có thể là một địa điểm trực tiếp, nhân viên, chi nhánh tùy thuộc vào luật pháp trong phạm vi đó.
Đặc điểm của Thuế thương vụ
Thuế thương vụ truyền thống hoặc bán lẻ chỉ được tính cho người dùng cuối của hàng hóa hoặc dịch vụ.
Bởi vì phần lớn hàng hóa trong nền kinh tế hiện đại trải qua nhiều giai đoạn sản xuất, thông qua nhiều thực thể kinh tế khác nhau, cần nhiều tài liệu để chứng minh ai là người cuối cùng chịu thuế thương vụ.
Các khu vực pháp lí khác nhau tính thuế thương vụ khác nhau, thường chồng chéo lên nhau.
Thuế thương vụ có liên quan chặt chẽ với thuế sử dụng, áp dụng cho cư dân đã mua các mặt hàng ngoài khu sinh sống của họ.
Ví dụ, một cư dân Georgia mua xe ở Florida, cô ấy sẽ phải trả thuế thương vụ địa phương Florida, như thể cô ấy đã mua nó tại nơi cô ấy ở.
Nexus
Việc một doanh nghiệp có nợ thuế thương vụ cho chính phủ hay không phụ thuộc vào cách chính phủ xác định nexus – mối liên hệ giữa các bên.
Ví dụ: New York đã thông qua "luật Amazon" yêu cầu các nhà bán lẻ internet như Amazon.com Inc. (AMZN) phải trả thuế thương vụ mặc dù họ không có chi nhánh hay đại diện thực tế tại chính tiểu bang.
Thuế môn bài
Thuế thương vụ chiếm tỉ lệ phần trăm trong giá hàng hóa bán ra.
Ví dụ: một tiểu bang có thể có thuế thương vụ 4%, quận 2% và thành phố 1,5% và cư dân của thành phố đó phải trả tổng cộng 7,5% trên giá hàng hóa bán ra.
Thuế giá trị gia tăng:
Mỹ là một trong số ít các quốc gia phát triển vẫn sử dụng thuế thương vụ thông thường.
Ở hầu hết các nước phát triển, thuế giá trị gia tăng (VAT) đã được áp dụng.
Những khoản phí này tính theo tỉ lệ phần trăm của giá trị gia tăng ở mọi cấp độ sản xuất hàng hóa.
Điểm khác nhau ở đây là thuế VAT đánh vào tỉ suất lợi nhuận gộp của công ty thay vì chỉ đánh thuế người dùng cuối.
Hệ thống thuế của Mỹ không có thuế VAT ngụ ý rằng thuế trả cho giá trị hàng hóa và tích lũy ở mọi giai đoạn của quy trình sản xuất. Từ đó số tiền thuế phải trả cao hơn, được chuyển đến người tiêu dùng cuối dưới dạng chi phí của hàng hóa và dịch vụ.
(Theo Investopedia)