Tài sản của Nhà nước (Public Property) là gì? Các thành phần
Mục Lục
Tài sản của Nhà nước
Tài sản của Nhà nước hay tài sản công trong tiếng Anh được gọi là Public Property.
Tài sản của Nhà nước là nguồn vốn và các phương tiện vật chất, kĩ thuật mà Nhà nước có thể sử dụng để quản lí xã hội như: ngân sách, đất đai và tài nguyên, công khố, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước…
Các thành phần
- Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách là một công cụ quản lí cực kì quan trọng của Nhà nước.
- Đất đai và tài nguyên là tài sản vô giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất hàng đầu và là thành phần quan trọng bậc nhất cho sự tồn tại của một xã hội.
- Công khố là kho bạc của Nhà nước, các nguồn dự trữ bằng tiền, ngoại tệ, vàng bạc, kim loại quí, đá quí được dùng với chức năng chủ yếu là dự trữ, bảo hiểm các bất trắc xảy ra trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội.
- Kết cấu hạ tầng là tập hợp những trang bị cơ bản về vật chất và con người của một xã hội, bao gồm 2 bộ phận: kết cấu hạ tầng kĩ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội.
+ Kết cấu hạ tầng kĩ thuật (hay còn gọi là kết cấu hạ tầng vật chất) là hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật được tổ chức thành các công trình sự nghiệp, các đơn vị sản xuất và dịch vụ có chức năng bảo đảm sự di chuyển các luồng thông tin, vật chất nhằm phục vụ nhu cầu có tính phổ boeens của sản xuất và tiêu dùng cho xã hội ở một giai đoạn phát triển của xã hội.
+ Kết cấu hạ tầng xã hội là những trang bị cơ bản về con người, thể hiện ở tiềm năng của con người trong xã hội (nhân lực).
- Các doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức sản xuất kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Chính sách Kinh tế - Xã hội, TS. Nguyễn Thị Lệ Thuý, TS. Bùi Thị Hồng Việt, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, NXB Tài chính, 2012)