1. Tài chính - Ngân hàng

Hợp đồng đồng thời mua và bán lãi suất (Collars) là gì?

Mục Lục

Hợp đồng đồng thời mua và bán lãi suất (Collars)

Hợp đồng đồng thời mua và bán lãi suất - danh từ, tên tiếng Anh gọi là Collars., viết tắt là hợp đồng Collars.

Hợp đồng đồng thời mua và bán lãi suất (hay còn gọi là hợp đồng trần - sàn) xuất hiện khi ngân hàng thực hiện đồng thời cả hai giao dịch Cap và Floor, như việc đồng thời mua quyền chọn mua và bán quyền chọn bán. (Theo Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Thống kê)

Nội dung của hợp đồng Collars

Nhìn chung, những nhà quản trị ngân hàng là những người ngại chấp nhận rủi ro và luôn quan tâm tìm kiếm các nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro lãi suất một cách an toàn đối với tài sản nợ và tài sản có.

Một phương pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất đó là tiến hành mua đồng thời hợp đồng Cap và Floor. Việc mua đồng thời hai hợp đồng một lúc được gọi là Collars. Đồ thị dưới đây biểu diễn những đặc điểm phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng nghiệp vụ Collars khi ngân hàng mua hợp đồng Cap với lãi suất là 9% và hợp đồng Floor với lãi suất là 4%.

Phần đồ thị ngoài tuyến lãi suất 9% và 4% trên đồ thị là các vùng mà người bán Collars phải thanh toán cho người mua (ứng với các mức lãi suất lớn hơn 9% và nhỏ hơn 4%). Nếu lãi suất trong khoảng từ 9% đến 4%, thì người mua Collars không nhận được bất cứ một khoản tiền thanh toán nào từ người bán Collars, tức là hợp đồng tự động hết hạn mà không có bất cứ một giao dịch thanh toán nào. 

Ngoài ra, người mua phải thanh toán cho người bán hai khoản phí, đó là khoản để mua hợp đồng Cap và khoản để mua hợp đồng Floor. Điều rõ ràng là mua hợp đồng Collars là tương tự như mua đồng thời toàn bộ quyền chọn mua và chọn bán trái phiếu, được gọi là straddle.

Hợp đồng Collars được sử dụng chủ yếu nhằm tài trợ cho chi phí mua Cap. Trong ví dụ vừa xét, Cap có giá trị là $100 triệu, chi phí hợp lí để mua hợp đồng Cap này là $792.000 hay 0,792% giá trị hợp đồng Cap. Nghĩa là chi phí (C) của Cap là: 

C = NVc.pc

Trong đó

NVc = Giá trị hợp đồng mua Cap. 

pc = Phí để mua hợp đồng Cap.

Trong ví dụ này:

C = $100 triệu x 0,00792 = $792.000

Để mua hợp đồng Cap, ngân hàng phải trả khoản phí này cho người bán Cap tại thời điểm kí hợp đồng.

Có rất nhiều ngân hàng phải đối mặt với rủi ro khi lãi suất tăng nhiều hơn là khi lãi suất giảm đã tìm kiếm giải pháp để tài trợ cho chi phí hợp đồng Cap bằng cách bán Floor đồng thời với việc mua Cap. Thông qua cách làm này, các ngân hàng thu được một khoản phí, gọi là phí bán hợp đồng Floor. 

Do đó, các ngân hàng không có tiềm năng thu được lợi nhuận khi lãi suất giảm hơn là lãi suất tăng. Thật vậy, khi lãi suất càng giảm, thì ngân hàng bán hợp đồng Floor càng phải thanh toán cho người mua càng nhiều.

Sau khi ngân hàng mua hợp đồng Cap và bán hợp đồng Floor, chi phí ròng đối với hợp đồng Cap sẽ là: 

C = (NVc x pc) - (NVf x pt)

C = Chi phí mua Cap - thu phí bán Floor.

Trong đó: 

NVf = Giá trị hợp đồng Floor

pt = tỉ lệ phí thu bán Floor

Giả sử, trong khi mua Cap, ngân hàng bán $100 triệu hợp đồng Floor kì hạn 2 năm với một tỉ lệ phí bán Floor là 0,75%. Do đó, chi phí ròng để mua hợp đồng Cap sẽ là:

C = ($100 triệu x 0,00792) - ($100 triệu x 0,0075) = $42.000.

Cần lưu ý là nếu ngân hàng sẵn sàng tăng mức lãi suất hợp đồng Floor thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro nhiều hơn khi lãi suất giảm, điều này gắn liền với khoản phí thu được do bán Floor cũng sẽ cao hơn. (Theo Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Thống kê)


Thuật ngữ khác