1. Tài chính

Nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội trong giai đoạn mới

Tín dụng chính sách xã hội đóng góp đáng kể vào giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm và nâng cao chất lượng đời sống.

Sau một thập kỷ thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI, tín dụng chính sách xã hội đã đạt nhiều thành tựu nổi bật. Nhận thức của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền và nhân dân về vai trò của tín dụng chính sách xã hội được nâng cao, tạo sự đồng thuận trong triển khai. Pháp luật và cơ chế liên quan không ngừng hoàn thiện, đặc biệt hỗ trợ kịp thời các đối tượng khó khăn do dịch Covid-19. Nguồn vốn tăng trưởng mạnh mẽ, với 100% địa phương cấp ngân sách bổ sung, đảm bảo phủ sóng tín dụng đến toàn bộ xã, phường, thị trấn.

Tín dụng chính sách xã hội đóng góp đáng kể vào giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm và nâng cao chất lượng đời sống. Chất lượng tín dụng được cải thiện, tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức thấp. Các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường giám sát, nhận ủy thác, giúp củng cố mô hình hoạt động của Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH).

Tuy nhiên, nhiều hạn chế vẫn tồn tại. Nguồn vốn chưa đa dạng, chưa đáp ứng đủ nhu cầu; vốn từ thiện và địa phương chiếm tỷ lệ nhỏ. Hiệu quả tín dụng ở một số địa phương thấp, nợ quá hạn cao. Quy mô đầu tư còn nhỏ lẻ, chưa gắn với chuỗi giá trị bền vững. Chuyển đổi số tại NHCSXH còn hạn chế. Những nguyên nhân chính bao gồm nhận thức chưa đầy đủ của một số cấp lãnh đạo, hạn chế trong phối hợp chính sách và nguồn lực tài chính chưa đáp ứng kịp thời.

Dù còn khó khăn, tín dụng chính sách xã hội vẫn là trụ cột quan trọng, khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trong đảm bảo an sinh và phát triển bền vững.

Bối cảnh tình hình mới, nhất là những tác động phức tạp, khó lường của các vấn đề an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống cùng với quyết tâm đạt được mục tiêu trở thành nước xã hội chủ nghĩa có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, thu nhập cao vào năm 2045 đang đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội.

Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trò của tín dụng chính sách xã hội.

Thứ hai, nâng cao vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội đối với tín dụng chính sách xã hội. Xác định công tác tín dụng chính sách xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đơn vị, địa phương và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030. Các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục thực hiện tốt các hoạt động nhận ủy thác từ Ngân hàng Chính sách xã hội...

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tín dụng chính sách xã hội theo hướng bao trùm, bền vững; đặt trong tổng thể thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2026-2030, Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội đến năm 2030 và các chương trình mục tiêu quốc gia. Nghiên cứu tiêu chí phân loại và quy trình xác định đối tượng, địa bàn nghèo, vùng khó khăn, đối tượng có thu nhập trung bình, ban hành chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030…

Thứ tư, ưu tiên tập trung nguồn lực, đa dạng hóa các kênh huy động vốn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội, bảo đảm nguồn vốn hoạt động được bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm cho Ngân hàng Chính sách xã hội, trong đó nguồn ngân sách nhà nước và có tính chất ngân sách nhà nước là chủ đạo, nguồn ủy thác từ các địa phương là quan trọng, đồng thời tăng cường huy động sự đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế.

Phấn đấu đến năm 2030, nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 30% tổng nguồn vốn. Nâng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách xã hội, phấn đấu đến năm 2030 nguồn vốn này chiếm 30% tổng nguồn vốn. Có cơ chế, chính sách để Ngân hàng Chính sách xã hội được tiếp nhận nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của Chính phủ. Các địa phương tiếp tục quan tâm, bố trí kịp thời ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội, phấn đấu hằng năm chiếm khoảng 15%-20% tăng trưởng dư nợ tín dụng chung của Ngân hàng Chính sách xã hội và đến năm 2030 chiếm 15% tổng nguồn vốn.

Tiếp tục duy trì số dư tiền gửi bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng Nhà nước tại Ngân hàng Chính sách xã hội.

Thứ năm, tiếp tục duy trì mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội đặc thù của Ngân hàng Chính sách xã hội. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế quản trị, cơ chế tạo lập nguồn vốn, cơ chế tài chính của Ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng ổn định, bền vững. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu lực hệ thống kiểm tra, giám sát, năng lực dự báo, phân tích; nâng cao khả năng cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội.

Hoàn thiện quy chế phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ bị rủi ro bảo đảm an toàn nợ, phù hợp với đặc thù, tính chất hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc theo dõi, giám sát, đôn đốc, thu hồi và xử lý nợ trong hoạt động tín dụng.

Thứ sáu, nghiên cứu cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích mạnh mẽ mô hình tín dụng chính sách, nhất là sự tham gia của cộng đồng, các doanh nghiệp xã hội, doanh nghiệp không vì mục tiêu lợi nhuận; khuyến khích phát triển các nền tảng số cho tín dụng chính sách, kiểm soát tín dụng đen một cách hiệu quả.

Lê Phương/BNEWS/TTXVN

Tin khác