1. Tài chính

Không lo thiếu vốn cho đồng bằng sông Cửu Long

Nhiều cơ chế chính sách ưu đãi về vốn cho vùng ĐBSCL

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đánh giá, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều lợi thế, nhiều tiềm năng và sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối khu vực, nhất là trong những năm vừa qua. Bám vào những chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành Ngân hàng đã có rất nhiều cơ chế, chính sách riêng cho khu vực này.

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định nguồn vốn ngân hàng dành cho ĐBSCL từ trước đến nay không bao giờ thiếu

Khẳng định nguồn vốn ngân hàng dành cho ĐBSCL từ trước đến nay không bao giờ thiếu, Phó Thống đốc chia sẻ số liệu kết quả vốn huy động tính đến tháng 9/2024 trên địa bàn các tỉnh, thành phố của vùng ĐBSCL đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng, nhưng dư nợ cho vay gần 1,2 triệu tỷ đồng. Nguồn huy động tại chỗ không đủ, các ngân hàng đã phải điều chuyển từ trung ương về bù đắp số vốn còn thiếu khoảng 350 nghìn tỷ đồng. Riêng vốn cho lĩnh vực lúa gạo, thủy sản, trái cây – 3 thế mạnh của ĐBSCL luôn chiếm tỷ trọng cao hơn trong cả nước.

Không chỉ vốn, về cơ chế chính sách ưu đãi Phó Thống đốc cho biết hiện có tới 12 văn bản đang còn hiệu lực ở khu vực này với ưu đãi về vốn, thời hạn, lãi suất, kể cả điều kiện tín dụng. Ví dụ trong Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ, sau này sửa đổi ở Nghị định 116 có rất nhiều nội dung ưu đãi: nâng mức vay không cần tài sản thế chấp, lãi suất cho vay đối tượng ưu tiên chỉ 4%/năm...

Ngành Ngân hàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để cung ứng đầy đủ vốn cho khu vực ĐBSCL, song Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng nhìn nhận, về thời hạn vay vốn, vốn trung và dài hạn đúng là vấn đề khó, vì người gửi tiền tiết kiệm thường chỉ gửi 1 năm, nếu ngân hàng cho doanh nghiệp vay với thời hạn 10 - 15 năm thì đây là cả vấn đề.

Bên cạnh đó, dù lãi suất cho vay chỉ 3% hay 5%/năm thì vẫn khó khăn với doanh nghiệp do tỷ lệ đi vay quá nhiều, vốn tự có ít. “Trong gần 1,2 triệu tỷ đồng dư nợ của đồng bằng sông Cửu Long, vốn tự có chỉ chiếm 18 - 20%; còn lại là vốn vay. Như vậy rõ ràng là khó cho doanh nghiệp. Nếu chỉ vay 30% như thông lệ các nước, thì doanh nghiệp không khó khăn”,Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhìn nhận.

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú chia sẻ về giải pháp

Nhìn từ góc độ vĩ mô, lãnh đạo NHNN cũng nhìn nhận, rủi ro trong nông nghiệp, nông thôn. Ví dụ trận bão số 3 vừa qua khiến nhiều nông dân mất hết. Ngân hàng chỉ có thể giãn, hoãn nợ còn người dân vẫn phải trả món nợ đó. Nhưng khi đã mất sạch thì người dân không còn tiền để trả. “Xóa nợ thì không thể vì luật pháp không cho phép; khoanh nợ thì phụ thuộc chính quyền địa phương - nhưng chưa địa phương nào công bố thiên tai trên diện rộng và làm chính sách khoanh nợ cho doanh nghiệp, vì khoanh nợ lại ảnh hưởng đến ngân sách địa phương. Cuối cùng ngân hàng lại phải gánh hết chuyện giãn, hoãn. Trong tuần tới, chúng tôi sẽ có thông tư về giãn, hoãn nợ sau đợt bão lũ này” – Phó Thống đốc Đào Minh Tú chia sẻ và nêu thêm ví dụ, giống như đồng bằng sông Cửu Long trước đây, khi lúa gạo bị sâu bệnh, hạn hán, ngập mặn, ngành ngân hàng cũng phải xử lý theo cách đó. Cuối cùng có thể nói, ngành Ngân hàng gánh nhiều rủi ro, phải trích lập dự phòng lớn.

Đối với nông nghiệp, cụ thể là hợp tác xã và nông dân, theo Phó Thống đốc hiện đã có rất nhiều chính sách của Trung ương và ngân hàng dành cho 2 nhóm đối tượng này tiếp cận các nguồn vốn. Vấn đề đặt ra với hợp tác xã là có phát triển bền vững không, hiệu quả không, lành mạnh không? Phải phát triển bền vững, mới là điều kiện để hợp tác xã tiếp cận vốn ngân hàng, bởi rủi ro với nông nghiệp rất lớn. Kế đến là hợp tác xã và nông dân phải có phương án sản xuất kinh doanh, năng lực quản trị của doanh nghiệp, khả năng trả nợ… “Ngân hàng cần quản lý được dòng tiền của mình nên cũng phải có các điều kiện cho vay để đảm bảo thu hồi được vốn đã cho vay”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.

Một khó khăn khác được lãnh đạo NHNN đề cập tới là vấn đề thiếu nguồn vốn tại chỗ và nguồn lực của doanh nghiệp, nhất là hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ. Ví dụ, Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” được triển khai mới đây, theo Đề án có 4 nguồn lực. Trong đó, ngân sách hỗ trợ giao thông, thủy lợi, cải tạo đất đai; vốn vay của WB; vốn đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài; cuối cùng là vốn ngân hàng. Đối với một số nguồn lực vốn vẫn chưa xong thủ tục hoặc chưa huy động được. Trong khi đó về phía ngành Ngân hàng, NHNN đã có hướng dẫn các ngân hàng thực hiện. Nói vậy để thấy, nguồn vốn cho ĐBSCL vẫn chủ yếu dựa vào tín dụng nên rất mong có sự chia sẻ với ngành ngân hàng.

Cuối cùng, liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn hạn chế. “Trong việc liên kết chuỗi, cũng như với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao phải có bàn tay Nhà nước mới thành công được”, Phó Thống đốc khẳng định.

Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV TS. Cấn Văn Lực cũng chỉ ra nhiều bất cập trong cơ chế, chính sách tín dụng nông nghiệp. Một số doanh nghiệp nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn do thiếu tài sản bảo đảm, phương án kinh doanh kém khả thi và hạn chế về quản trị. Tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt là trong các chương trình mục tiêu quốc gia, cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả phát triển NN-NT. Liên kết giữa các thành phần sản xuất trong chuỗi giá trị nông nghiệp còn lỏng lẻo, dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn vay. Bảo hiểm nông nghiệp, dù đã có chính sách, nhưng triển khai còn chậm, chưa được nhân rộng.

Vốn cho ĐBSCL luôn sẵn sàng

Trước thực tế trên, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, thời gian tới, quan điểm chỉ đạo của NHNN về nguồn vốn, với cả nước có thể cần kiểm soát để kiểm soát lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống, nhưng với nông nghiệp, nông thôn và đặc biệt ĐBSCL sẽ không lo thiếu vốn. Nếu NHTM thiếu vốn thì NHNN sẽ có biện pháp tái cấp vốn hoặc có hình thức cụ thể để hỗ trợ nguồn lực.

Lãnh đạo NHNN cho biết, lẽ ra NHNN phải giảm tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống 30% nhưng vì nền kinh tế còn khó khăn nên NHNN vẫn phải tạm hoãn. Riêng đồng bằng sông Cửu Long với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ngành Ngân hàng sẽ quan tâm đến vốn trung và dài hạn. Hiện NHNN đã chỉ đạo Agribank và các ngân hàng khác cùng chung tay, đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro. "Tới đây, sẽ chỉ đạo thí điểm ở Công ty Trung An", Phó Thống đốc thông tin.

Về lãi suất, hiện lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã có chính sách rồi, với Đề án 1 triệu ha thì chính sách đã rõ hơn nữa. Về Quỹ Tín dụng nhân dân, quan điểm của NHNN là sẽ củng cố hệ thống này nhưng không mở rộng quy mô và số lượng.

Đồng thời, thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp đặc thù hoạt động của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo, thủy sản, rau quả…

TS. Cấn Văn Lực cũng đề xuất NHNN hỗ trợ các tổ chức tín dụng với nguồn vốn tái cấp ưu đãi, lãi suất thấp; phát triển sản phẩm tín dụng đặc thù, như tài trợ chuỗi cung ứng, tín dụng cho nông nghiệp xanh và nông nghiệp sạch; sớm thành lập thị trường tín chỉ carbon để gia tăng nguồn lực tài chính từ lĩnh vực này.

Theo thống kê của NHNN, đến cuối tháng 9/2024, tổng dư nợ tín dụng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 1,18 triệu tỷ đồng, tăng 8% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của vùng đạt khoảng 643 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với 2023, chiếm 54% tổng dư nợ trên địa bàn.

Nhóm phóng viên

Tin khác