1. Tài chính

Cuối tháng 8, dư nợ tín dụng tại Hà Nội ước đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng

Quy mô tín dụng tại Hà Nội xếp thứ 2 toàn quốc

Tại Hội nghị Kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày 21/9, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến ngày 15/9/2023, tín dụng toàn nền kinh tế đạt gần 12,6 triệu tỷ đồng, tăng 5,56%.

Trong khi trước đó, tại ngày 29/8/2023, tín dụng nền kinh tế đạt khoảng 12,56 triệu tỷ đồng, tăng 5,33% so với cuối năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,87%).

Riêng trên địa bàn TP Hà Nội, đến cuối tháng 8/2023, dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt trên 3,2 triệu tỷ đồng, tăng 10,35% so với cuối 2022 (cao hơn mức tăng toàn quốc 5,56%, cao hơn mức tăng trưởng của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 8,35%); quy mô tín dụng của thành phố đứng thứ 2 toàn quốc, chỉ sau TP HCM.

Trong đó, cơ cấu tín dụng tập trung ở ngành thương mại dịch vụ, chiếm tỷ trọng cao nhất 67,4% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố, tăng 11,3%. Một số ngành dịch vụ có dư nợ lớn, mức tăng trưởng cao như ngành bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm;...đóng góp quan trọng cho mức tăng trưởng cao khu vực dịch vụ của thành phố.

Tiếp đó là tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 30,8% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố, tăng 8,5%.

Theo bà Hà Thu Giang, mặc dù toàn ngành ngân hàng đã nỗ lực thực hiện các chủ trương chính sách, giải pháp, song, việc cung ứng và tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp trên cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Cụ thể, các kênh huy động vốn khác chưa thực sự phát huy hiệu quả, nhất là thị trường vốn như phát hành trái phiếu, thị trường chứng khoán đang tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Từ đó, đã khiến cho nhu cầu vốn phục hồi kinh tế tập trung phần lớn qua kênh tín dụng ngân hàng, tạo áp lực cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế lên ngành ngân hàng.

Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước. Ảnh: Đức Minh

Về mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn thấp so với cùng kỳ các năm trước, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các yếu tố khách quan như cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm; một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ; tác động từ khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm bất động sản.

Bên cạnh đó, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...), các tổ chức tín dụng rất khó khăn trong quyết định cho vay do không hạ được chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.

6 giải pháp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh tại Hà Nội

Trước tình hình thực tế trên, để góp phần đẩy mạnh sản xuất hoạt động kinh doanh trên địa bàn TP Hà Nội, bên cạnh các giải pháp của các bộ, ngành, địa phương, Vụ trưởng Vụ tín dụng cho biết, trong thời gian tới ngành ngân hàng tiếp tục tích cực triển khai các giải pháp ngân hàng, tín dụng cho khu vực.

Một là, tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý; gắn việc đầu tư tín dụng ngân hàng để thực hiện các chương trình dự án theo quy hoạch của thành phố.

Tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên. Xem xét ưu tiên cấp tín dụng theo danh mục phân loại xanh, cho vay tín đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân, các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại giá rẻ.

Hai là, tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn hỗ trợ khách hàng, chỉ đạo tổ chức tín dụng tích cực triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại chương trình phục hồi kinh tế - xã hội.

Kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông; kiểm soát chất lượng tín dụng và ngăn ngừa nợ xấu.

Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận tín dụng, chỉ đạo các tổ chức tín dụng điều tiết giảm chi phí tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp khác.

Từ đó, có điều kiện tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay mới và dư nợ hiện hữu; rà soát cắt giảm chi phí nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân.

Ngoài ra, các ngân hàng cần chủ động xây dựng các chương trình, sản phẩm tín dụng với lãi suất hợp lý, đáp ứng linh hoạt nhu cầu của nhiều đối tượng, phân khúc khách hàng. Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục nội bộ để tạo thuận lợi cho khách hàng tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn.

Bốn là, tiếp tục triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, trong đó có chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo quy định tại Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023.

Năm là, đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tăng cường thông tin, nắm bắt nhu cầu, kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Cuối cùng là củng cố, phát triển mạng lưới và dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục trong giao dịch với khách hàng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng và dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn.

Thu Trang

Tin khác