Thuế sử dụng đất nông nghiệp (Agricultural Land Use Tax) là gì? Căn cứ tính thuế
Mục Lục
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất nông nghiệp trong tiếng Anh là Agricultural Land Use Tax.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp là loại thuế đánh vào hoạt động sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp.
Đối tượng sử dụng đất nông nghiệp bao gồm tổ chức, hộ gia đình nông dân, hộ tư nhân và các nhân sản xuất nông nghiệp và kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp bao gồm đất trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất rừng trồng.
Mục tiêu của thuế sử dụng đất nông nghiệp là nhằm tăng cường quản lí và khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, điều tiết một phần thu nhập của người sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Căn cứ để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp
Căn cứ để tính thuế sử dụng đất nông nghiệp dựa vào diện tích, hạng đất, định suất thuế tính bằng ki-lô-gam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.
Diện tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích giao cho hộ sử dụng đất phù hợp với sổ địa chính nhà nước, trong trường hợp chưa lập sổ địa chính thì diện tích tính thuế là diện tích ghi trên tờ khai của hộ sử dụng đất.
Tổ chức, các nhân sử dụng đất nông nghiệp có trách nhiệm kê khai mẫu tính thuế của cơ quan thuế và gửi bản kê khai đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đúng thời gian qui định. Khi có thay đổi về diện tích đất chịu thuế, hộ nộp thuế phải kê khai lại với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Sổ thuế được lập theo đơn vị hành chính các cấp, đất được đăng kí ở đơn vị hành chính nào thì tính thuế và lập thuế ở đơn vị hành chính đó.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải niêm yết công khai số thuế trong năm của từng hộ nộp thuế trong thời hạn 20 ngày trước khi trình duyệt sổ thuế. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận sổ thuế trước khi trình Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh xét duyệt.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp được tính bằng thóc, thu bằng tiền. Giá thóc thu thuế do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thấp hơn không quá 10% so với giá thị trường ở địa phương trong vụ thu thuế.
Trong trường hợp đặc biệt, thuế có thể thu bằng thóc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Quản lí tài chính công ở Việt Nam, NXB Tài chính)