Thời kì chờ đợi (Quiet Period) là gì? Những đặc điểm cần lưu ý
Mục Lục
Thời kì chờ đợi
Thời kì chờ đợi, tiếng Anh gọi là quiet period.
Thời kì chờ đợi là lệnh cấm vận quảng cáo bắt buộc được ban hành bởi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC) đối với giai đoạn tiền IPO của một công ty.
Qui định này ngăn cấm đội ngũ quản lí và các bên marketing của họ thực hiện đưa ra dự báo hay bày tỏ quan điểm về giá trị của công ty.
Đối với những công ty đại chúng thì bốn tuần trước khi kết thúc quí kinh doanh cũng được gọi là thời kì chờ đợi. Tương tự như vậy, những thành viên của nội bộ công ty cũng bị cấm phát biểu với công chúng về tình hình kinh doanh, để tránh tạo ra những lợi thế không công bằng cho một số nhà phân tích, phóng viên, nhà đầu tư hay người quản lí quĩ. Và cũng để tránh việc xuất hiện thông tin nội bộ dù là cố tình hay vô ý.
Hiểu rõ hơn về thời kì chờ đợi
Sau khi doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng kí phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) cho SEC, thì đội ngũ quản lí, bên ngân hàng đầu tư và bên pháp lí sẽ tổ chức một buổi roadshow. Trong quá trình giới thiệu, sẽ có một số nhà đầu tư tiềm năng đặt câu hỏi cho công ty nhằm mục đích nghiên cứu đầu tư. Đội ngũ quản lí của công ty lúc này không được cung cấp những thông tin mới nào không xuất hiện trong hồ sơ đăng kí.
Thời kì chờ đợi bắt đầu khi tuyên bố đăng kí có hiệu lực và kéo dài đến 40 ngày sau ngày chứng khoán mới bắt đầu được giao dịch. Mục đích của việc này là tạo ra một sân chơi công bằng về thông tin cho mọi nhà đầu tư.
Thường thì việc SEC phải hoãn lại một đợt IPO do thời kì chờ đợi bị vi phạm rất ít khi xảy ra, vì những bên quan tâm sẽ rất nghiêm túc trong quả trình này do đây là hoạt động liên quan đến rất nhiều tiền.
Việc tranh cãi về mục đích của thời kì chờ đợi và qui định của SEC thường xuyên xảy ra trên thị trường tài chính. Đặc biệt là sau những đợt IPO nổi tiếng, ví dụ như Facebook vào năm 2012 đã làm xuất hiện hơn một chục vụ kiện của cổ đông với cáo buộc rằng công ty mạng xã hội này cùng với bên bảo lãnh của nó đã che dấu dự báo tăng trưởng suy yếu trước khi niêm yết.
Các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng phàn nàn rằng họ bị bất lợi về thông tin do các nhà nghiên cứu phân tích của bên bảo lãnh chỉ cung cấp những khoản ước tính lợi nhuận mới và hữu ích cho nhà đầu tư lớn.
(Theo Investopedia)