Quản trị toàn cầu (Global governance) là gì?
Mục Lục
Quản trị toàn cầu
Quản trị toàn cầu trong tiếng Anh là global governance.
Quản trị toàn cầu là tập hợp các thể chế, qui định, chuẩn tắc và dàn xếp pháp lí nhằm quản lí quan hệ giữa các quốc gia và tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực vấn đề khác nhau.
Các yếu tố thúc đẩy quản trị toàn cầu
Quản trị toàn cầu có thể được xem là một nhân tố mới làm thay đổi nền chính trị thế giới hiện đại. Quản trị toàn cầu ra đời cùng với sự xuất hiện của các chủ thể mới trong quan hệ quốc tế và được thúc đẩy bởi ba yếu tố quan trọng.
Thứ nhất là sự kết thúc Chiến tranh Lạnh. Điều này làm gia tăng kì vọng rằng các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc quản lí hệ thống quốc tế.
Thứ hai là sự xuất hiện ngày càng nhiều các vấn đề toàn cầu. Việc giải quyết các vấn đề này đòi hỏi một cách tiếp cận toàn cầu được phối hợp hài hòa giữa các quốc gia với nhau và do đó quản trị toàn cầu trở thành một giải pháp quan trọng nhằm đối phó với các vấn đề này.
Thứ ba, quản trị toàn cầu cũng có thể coi là kết quả của quá trình toàn cầu hóa trên nhiều mặt văn hóa, kinh tế, chính trị. Quá trình này được thực hiện thông qua sự phát triển của khoa học công nghệ, sự xuất hiện của internet và các phương tiện kĩ thuật khác vốn giúp giảm bớt những cách trở về mặt địa lí và tăng cường các mạng lưới liên kết trên qui mô toàn cầu.
Những tư duy theo hướng toàn cầu vì vậy ngày càng trở nên phổ biến hơn và làm cho khái niệm quản trị toàn cầu trở nên dễ chấp nhận hơn đối với các quốc gia.
Đặc trưng của quản trị toàn cầu
Quản trị toàn cầu ra đời cùng với sự xuất hiện của các tổ chức hợp tác đa phương toàn cầu hay các thể chế toàn cầu. Trong đó quan trọng nhất là sự xuất hiện của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức hợp tác kinh tế đa phương, tiêu biểu như Hiệp định Chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) - tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB).
Hơn nữa, quản trị toàn cầu cũng là kết quả của các mạng lưới liên kết kinh tế ngày càng tăng sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia (MNCs) làm lu mờ các đường biên giới và tác động tới hoạt động kiểm soát nền kinh tế của các quốc gia.
Quản trị toàn cầu cũng xuất hiện cùng với những qui định, chuẩn mực chung cho các hoạt động quốc tế. Các quốc gia khi tham gia vào các tổ chức hợp tác đa phương phải tuân theo những qui định và chuẩn mực này. Luật pháp quốc gia cũng phải thay đổi nhằm tương thích với các qui định của luật pháp quốc tế. Chính vì vậy việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế có thể nói là một dấu hiệu đặc trưng của quản trị toàn cầu.
Những quan điểm trên cho thấy quản trị toàn cầu vẫn là một khái niệm còn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên nhìn chung hiện nay đa số các quốc gia vẫn cho rằng quản trị toàn cầu làm xói mòn chủ quyền của các quốc gia, một điều mà họ lo ngại.
Nói cách khác, trong khi các quốc gia vẫn đang tìm kiếm các cách thức nhằm quản lí hệ thống quốc tế hiệu quả hơn, họ vẫn chưa thể sẵn sàng cho phép một tổ chức siêu quốc gia quản lí họ một cách trực tiếp. Hơn nữa, chủ quyền quốc gia vẫn đang là một lí tưởng quan trọng đối với nhiều bộ phận dân cư trên toàn cầu, đặc biệt là những nhóm dân tộc đang theo đuổi quyền dân tộc tự quyết cho mình.
Ngoài ra, nhiều nhà phê bình cũng e ngại rằng quản trị toàn cầu sẽ phản ánh chỉ các giá trị và lợi ích của các nước giàu và phát triển mà không bảo vệ lợi ích của các nước nghèo và kém phát triển. Chính vì vậy trong bối cảnh hiện nay và tương lai gần, quản trị toàn cầu nên được hiểu là một hình thức quản lí toàn cầu hơn là một dạng chính phủ toàn cầu.
(Theo Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM, NXB Chính trị Quốc gia sự thật)