Khái niệm Dưới mệnh giá (Below Par) trong chứng khoán là gì? Đặc điểm
Mục Lục
Dưới mệnh giá
Dưới mệnh giá trong tiếng Anh là Below Par.
Khái niệm dưới mệnh giá là một thuật ngữ mô tả trái phiếu có giá thị trường đang giao dịch dưới mệnh giá giá hoặc giá trị gốc của nó, thường là $1.000.
Vì giá trái phiếu được yết giá theo tỉ lệ phần trăm của mệnh giá, giá dưới mệnh giá giá thường sẽ thấp hơn 100.
Đặc điểm của khái niệm Dưới mệnh giá
Một trái phiếu có thể được giao dịch dưới mệnh giá, trên mệnh giá hoặc ngang bằng mệnh giá.
Giao dịch trái phiếu theo mệnh giá đơn giản là giao dịch trái phiếu theo mệnh giá của chứng chỉ trái phiếu. Một nhà đầu tư mua trái phiếu này sẽ được trả tiền theo mệnh giá khi đáo hạn, không hơn cũng không kém.
Một trái phiếu có giá cao hơn mệnh giá được gọi là trái phiếu cao cấp (A premium bond). Giá trị trái phiếu sẽ giảm dần trong vòng đời cho đến khi nó ngang bằng mệnh giá tại ngày đáo hạn. Trái chủ sẽ nhận được mệnh giá của trái phiếu khi đáo hạn; mệnh giá lúc này nhỏ hơn giá lúc trái phiếu được mua.
Một giao dịch trái phiếu dưới mệnh giá giá cũng giống như một giao dịch trái phiếu giảm giá. Khi trái phiếu chiết khấu tiến đến thời gian đáo hạn, giá trị của nó tăng lên và dần dần bằng với mệnh. Khi đáo hạn, trái chủ nhận được mệnh giá của trái phiếu; giá trị này cao hơn giá của trái phiếu đã được mua.
Ví dụ: một trái phiếu có mệnh giá $1.000 được in trên chứng chỉ nhưng đang được bán trên thị trường với giá $920. Trái phiếu này được cho là giao dịch dưới mệnh giá giá. Mặc dù nhà đầu tư đã trả $920 để mua trái phiếu, nhưng họ sẽ nhận được $1.000 khi đáo hạn.
Tại sao trái phiếu giao dịch Dưới mệnh giá?
Một trái phiếu có thể giao dịch dưới mệnh giá khi lãi suất thay đổi trên thị trường.
Với mối quan hệ nghịch đảo giữa giá trái phiếu và lãi suất, nếu lãi suất hiện hành tăng trong nền kinh tế, giá trị của trái phiếu sẽ giảm. Điều này là do lãi suất trái phiếu hiện thấp hơn lãi suất thị trường.
Nói cách khác, các nhà đầu tư đang nhận được thu nhập lãi ít hơn so với những gì họ sẽ nhận được nếu họ mua cổ phiếu trên thị trường.
Ví dụ, giả sử một trái phiếu được phát hành tại mệnh giá. Lãi suất coupon trái phiếu là 3,5% và lãi suất thị trường cũng là 3,5%. Một vài tháng sau, nền kinh tế tăng giá lãi suất lên 4,1%.
Vì lãi suất của trái phiếu được cố định ở mức 3,5%, nên hiện tại nó thấp hơn lãi suất trong nền kinh tế. Khi một trái phiếu giao dịch dưới mệnh giá, lợi suất hiện tại của nó (thanh toán phiếu lãi chia cho giá thị trường) cao hơn lãi suất coupon cố định.
Một trái phiếu cũng có thể giao dịch dưới mệnh giá nếu xếp hạng tín dụng của nó bị hạ cấp bậc. Điều này làm giảm mức độ tin cậy đối với sức khỏe tài chính của công ty phát hành, khiến giá trị của trái phiếu giảm xuống dưới mệnh giá giá.
Một cơ quan xếp hạng hạ cấp tín dụng của công ty phát hành sau khi xem xét các yếu tố nhất định như lo ngại về rủi ro vỡ nợ của nhà phát hành, điều kiện kinh doanh xấu đi, tăng trưởng nền kinh tế yếu hơn và số dư tiền mặt trên bảng cân đối kế toán,…
Khi có nguồn cung dư trái phiếu dư thừa, trái phiếu sẽ giao dịch dưới mệnh giá.
Nếu lãi suất dự kiến sẽ tăng trong tương lai, thị trường trái phiếu có thể trải qua sự gia tăng số lượng trái phiếu phát hành trong thời điểm hiện tại.
Vì các công ty phát hành trái phiếu cố gắng vay vốn từ các nhà đầu tư với chi phí tài chính thấp nhất có thể, họ sẽ tăng nguồn cung của các trái phiếu có lãi suất thấp này và biết rằng trái phiếu phát hành trong tương lai có thể được hưởng lãi suất cao hơn.
Việc cung vượt quá sẽ lần lượt đẩy giá trái phiếu xuống dưới mệnh giá.
(Theo Investopedia)