Dòng tiền thông thường (Conventional Cash Flow) là gì? So sánh với dòng tiền không theo qui ước
Mục Lục
Dòng tiền thông thường
Dòng tiền thông thường trong tiếng Anh là Conventional Cash Flow.
Dòng tiền thông thường là một chuỗi các dòng tiền vào và ra theo thời gian, trong đó chỉ có một thay đổi theo hướng dòng tiền.
Dòng tiền thông thường cho một dự án hoặc khoản đầu tư thường được cấu trúc như một khoản chi phí ban đầu như là dòng tiền ra, theo sau đó là các dòng tiền vào trong một khoảng thời gian.
Về mặt kí hiệu toán học, dòng tiền thông thường sẽ được hiển thị dưới dạng -, +, +, +, +, +, biểu thị dòng tiền ra (-) trong năm 0, và theo sau đó là dòng tiền vào (+) trong các năm tiếp theo.
Ứng dụng thường xuyên của dòng tiền thông thường là phân tích giá trị hiện tại ròng (NPV). NPV giúp chiết khấu giá trị của dòng tiền trong tương lai về giá trị hiện tại, và so sánh NPV với lợi nhuận của một khoản đầu tư thay thế.
Đặc điểm của Dòng tiền thông thường
Một dự án hoặc khoản đầu tư với dòng tiền thông thường bắt đầu bằng dòng tiền âm, tiếp theo là các giai đoạn liên tiếp của dòng tiền dương được tạo bởi dự án sau khi hoàn thành.
Tỉ suất hoàn vốn từ khoản đầu tư được gọi là lãi suất hoàn vốn nội bộ (IRR).
Dòng tiền được mô hình hóa để phân tích NPV trong ngân sách vốn của một công ty đầu tư. Từ đó, ta tính được IRR của dự án. So sánh IRR với lãi suất hoàn vốn tối thiểu, giúp biết được mức độ hấp dẫn về tính kinh tế của dự án.
Dòng tiền thông thường và Dòng tiền không theo qui ước
Ngược lại, dòng tiền không theo qui ước (Unconventional cash flows) liên quan đến sự thay đổi theo cả hai hướng của dòng tiền và dẫn đến hai tỉ suất lợi nhuận ở các khoảng khác nhau.
Nói cách khác, dòng tiền không theo qui ước có nhiều hơn một khoản chi hoặc đầu tư, trong khi dòng tiền thông thường chỉ có một.
Ví dụ, với dòng tiền thông thường, nhà đầu tư chi một khoản đầu tư (dòng tiền âm) ban đầu cho năm đầu tiên, và các năm còn lại là dòng tiền dương. Nếu với dòng tiền không theo qui ước, ngoài dòng tiền âm vào năm đầu tiên, thì giả sử trong năm thứ 5, dòng tiền âm xuất hiện để mua thêm thiết bị. IRR sẽ cần phải được tính trong 05 năm đầu tiên và một IRR khác cho giai đoạn thứ hai của dòng tiền âm sau năm thứ 05.
Có hai giá trị IRR cho một dự án có thể gây ra sự không chắc chắn về quyết định cho ban quản lí nếu một IRR vượt quá giá trị tỉ suất hoàn vốn tối thiểu và IRR còn lại thì không. Nếu có sự không chắc chắn, ban lãnh đạo sẽ không tự tin để tiếp tục đầu tư.
Ví dụ về Dòng tiền thông thường
Thế chấp là một ví dụ về dòng tiền thông thường.
Giả sử một tổ chức tài chính cho vay $300.000 cho một chủ sở hữu nhà hoặc nhà đầu tư bất động sản với lãi suất cố định 5% trong 30 năm. Tổ chức tài chính này sau đó nhận được khoảng $1.610 mỗi tháng hay $19.325 hàng năm từ người vay đối với việc trả nợ gốc và lãi.
Nếu dòng tiền hàng năm được biểu thị bằng các kí hiệu toán học theo quan điểm của người cho vay, thì dòng tiền này sẽ xuất hiện dưới dạng năm đầu tiên là "–", theo sau là dấu "+" cho 30 kì tiếp theo.
(Theo Investopedia)