Chi phí của thất nghiệp (Costs of unemployment) là gì?
Mục Lục
Chi phí của thất nghiệp
Chi phí của thất nghiệp trong tiếng Anh được gọi là costs of unemployment.
Chi phí của thất nghiệp là những chi phí gây ra bởi thất nghiệp.
Thất nghiệp gây ra những chi phí đáng kể đối với xã hội, nhưng điều quan trọng cần hiểu các chi phí này một cách chính xác để giúp các nhà hoạch định chính sách có những cách điều chỉnh thích hợp.
Đặc điểm
Một đặc điểm quan trọng của thất nghiệp là nó phân bổ không đồng đều đến toàn xã hội. Do đó, chi phí của nó cũng phân bổ không đều. Thất nghiệp thường ảnh hưởng mạnh nhất đến thanh niên và những nhóm dân cư nghèo trong xã hội.
Đo lường chi phí thất nghiệp
Đối với cá nhân, thất nghiệp là một gánh nặng. Khi bị mất việc, thu nhập của công nhân giảm, ảnh hưởng xấu đến mức sống, đồng thời họ cũng dễ bị tổn thương về tâm lí. Nếu thất nghiệp kéo dài, các kĩ năng lao động của công nhân cũng bị mai một. Mối quan hệ gia đình có thể trở nên căng thẳng khi người trụ cột trong gia đình bị thất nghiệp.
Rất khó đo lường các chi phí này một cách chính xác. Các nhà kinh tế đã tìm cách đo lường một chi phí khác của thất nghiệp, sản lượng mất mát do mức sử dụng lao động trong nền kinh tế giảm. Điều quan trọng ở đây là cần phân biệt giữa thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp chu kì.
Chi phí của các loại thất nghiệp
- Đối với thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế phải chịu. Thực ra thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng mức thấp nghiệp này là đáng mong muốn. Thất nghiệp tự nhiên lại phản ánh rất nhiều các hiện tượng và lực lượng khác nhau:
Thất nghiệp tạm thời, phát sinh khi công nhân cần thời gian để tìm việc
Thất nghiệp cơ cấu phát sinh do có sự không ăn khớp giữa cơ cấu của cầu và cung lao động
Thất nghiệp theo lí thuyết cổ điển xảy ra khi tiền lương được chủ động duy trì cao hơn mức cân bằng thị trường.
Rõ ràng không phải mọi bộ phận của thất nghiệp tự nhiên đều phản ánh sự lãng phí nguồn lực. Trong một chừng mực nào đó thất nghiệp tạm thời có thể là một điều tốt, người ta không chấp nhận công việc đầu tiên mà họ được yêu cầu.
Quá trình tìm việc sẽ giúp người lao động có thể kiếm được việc làm tốt hơn, phù hợp hơn với nguyện vọng và năng lực của họ.
Điều này còn có một lợi ích xã hội: làm cho lao động và việc làm khớp nhau hơn và do đó các nguồn lực sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.
Thất nghiệp cũng có nghĩa là công nhân có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn. Bằng cách từ bỏ làm việc, một số người sẽ nhận thấy rằng nghỉ ngơi thêm mang lại cho họ nhiều giá trị hơn so với khoản thu nhập mà lẽ ra họ có thể nhận nếu làm việc.
Tuy nhiên chỉ một phần của thất nghiệp tự nhiên thuộc loại này. Một số công nhân bị mất việc trong thời gian dài, mà không có cơ hội thực sự tìm được việc làm. Điều quan trọng cần hiểu là phải chăng những trở ngại để có việc là do sự khiếm khuyết của thị trường và liệu các khiếm khuyết này có thể được khắc phục bằng các chính sách.
- Đối với thất nghiệp chu kì
Vấn đề hoàn toàn khác khi chúng ta đề cập đến thất nghiệp chu kì, tức là mức thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên. Trong trường hợp này, sản lượng có thể tăng lên bằng cách sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có.
Qui luật Ô-kun – kết quả rút ra từ các phân tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa thất nghiệp và sản lượng đối với nền kinh tế Mỹ – đã chỉ ra rằng khi thất nghiệp thực tế cao hơn 1% so với thất nghiệp tự nhiên, sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng 2,5%.
Khi sản lượng ở dưới mức tự nhiên, những tổn thất của thất nghiệp là rõ ràng. Những cá nhân thất nghiệp bị mất tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp, Chính phủ mất thu nhập từ thuế và phải trả thêm trợ cấp và các doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên thất nghiệp chu kì cũng có những tác động tích cực. Điều này cho phép giảm phần nào những chi phí ở trên.
Một người mất việc sẽ được nghỉ ngơi và thời gian nhàn rỗi cũng có một giá trị nào đó, ngay cả khi phần lớn thời gian nhàn rỗi này là không tự nguyện và do đó lợi ích từ thất nghiệp chu kì có giá trị rất nhỏ so với thu nhập bị mất và tăng sức ép tâm lí do thất nghiệp gây ra.
Xã hội với tư cách là một tổng thể chịu nhiều tổn thất hơn so với các cá nhân thất nghiệp về mặt thu nhập. Bởi vì một công nhân có việc sẽ nộp thuế cho Chính phủ, trong khi một công nhân thất nghiệp có thể được nhận trợ cấp.
Chi phí về sản lượng đối với xã hội của một công nhân thất nghiệp chu kì bao gồm 3 thành phần: thu nhập mất mát của các công nhân thất nghiệp sau khi trừ đi trợ cấp thất nghiệp; giá trị của trợ cấp thất nghiệp do Chính phủ trả; và sự mất mát nguồn thu do thu nhập từ thuế giảm.
(Tài liệu tham khảo: Tài liệu Thất nghiệp, ĐH Kinh tế Quốc dân)