Bi kịch của tài nguyên chung (Tragedy Of The Commons) là gì? Ví dụ về bi kịch của tài nguyên chung
Mục Lục
Bi kịch của tài nguyên chung
Bi kịch của tài nguyên chung trong tiếng Anh là Tragedy Of The Commons.
Bi kịch của tài nguyên chung là một vấn đề kinh tế, trong đó mỗi cá nhân đều có động cơ để tiêu thụ tài nguyên dù gây tổn thất đến những người khác, mà không có cách nào để loại trừ bất kì ai khỏi hoạt động tiêu thụ, dẫn đến việc tiêu thụ quá mức, đầu tư thiếu hụt và cuối cùng là cạn kiệt tài nguyên.
Khi nguồn cầu về tài nguyên áp đảo nguồn cung, mỗi cá nhân tiêu thụ thêm một phần tài nguyên trực tiếp gây hại cho những người khác, khiến họ không còn có thể nhận được lợi ích từ nguồn cung đó. Các tài nguyên gặp phải hiện tượng này thường có đặc điểm là mọi người có thể dễ dàng tiếp cận chúng.
Thông thường, bi kịch của tài nguyên chung xảy ra khi các cá nhân bỏ bê sự thịnh vượng chung của xã hội để theo đuổi lợi ích cá nhân.
Bản chất bi kịch của tài nguyên chung trong kinh tế
Về mặt kinh tế, bi kịch của chung có thể xảy ra khi một hàng hóa kinh tế vừa có tính cạnh tranh trong tiêu dùng và vừa có tính chất không thể loại trừ. Ngoài ra, để bi kịch của tài nguyên chung xảy ra thì hàng hóa đó cũng phải khan hiếm, vì hàng hóa không khan hiếm không thể có tính cạnh tranh trong tiêu dùng do luôn có rất nhiều hàng hóa đó để phân chia.
Chính sự kết hợp các tính chất trên tạo ra bi kịch của tài nguyên chung. Mỗi người tiêu dùng đều cố gắng cách tiêu thụ càng nhiều càng tốt tài nguyên trước khi những người khác làm cạn kiệt nó, và không ai có động lực để tái đầu tư vào việc duy trì hoặc tái tạo hàng hóa vì họ không thể ngăn chặn người khác chiếm đoạt giá trị của khoản đầu tư, do họ vẫn có thể tiếp tục tiêu thụ tài nguyên mà không đóng góp gì.
Tài nguyên ngày càng trở nên khan hiếm và cuối cùng có thể bị cạn kiệt.
Ví dụ về bi kịch của tài nguyên chung
Ngư trường Grand Banks ngoài khơi Newfoundland là một ví dụ điển hình cho thảm kịch của tài nguyên chung. Trong hàng trăm năm, ngư dân trong vùng tin rằng ngư trường rất phong phú với cá tuyết, bởi với công nghệ đánh bắt cá thời đó thì họ có thể câu bao nhiêu cá tùy thích do số lượng cá bị đánh bắt được bù đắp bởi chu kì sinh sản tự nhiên.
Tuy nhiên, vào những năm 1960, những tiến bộ trong công nghệ đánh bắt đã khiến cho ngư dân có thể đánh bắt được một lượng cá tuyết tương đối lớn, khiến cho hoạt động đánh bắt cá tuyết mang tính cạnh tranh; do sau mỗi lần đánh bắt thì lượng cá tuyết còn lại càng ít đến mức bắt đầu làm cạn kiệt nguồn giống và giảm số lượng cá có thể đánh bắt trong mùa tiếp theo.
Không có khuôn khổ hiệu quả nào về quyền sở hữu cũng như không có bất kì qui định chung về đánh bắt cá được đưa ra. Ngư dân bắt đầu cạnh tranh với nhau để đánh bắt số lượng cá tuyết ngày càng lớn và đến năm 1990, lượng cá tuyết trong khu vực rất thấp, toàn bộ ngành đánh bắt cá tại đây sụp đổ.
(Theo investopedia)