Những điểm sáng tạo đà cho tăng trưởng kinh doanh dưới áp lực tỷ giá
Đây là nội dung quan trọng được chia sẻ tại buổi Talkshow “Ứng phó linh hoạt dưới áp lực tỷ giá”, được phát sóng vào chiều nay (27-10), nằm trong chuỗi tọa đàm “Giải mã thị trường chứng khoán” do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức, với sự đồng hành của Công ty Chứng khoán ACB (ACBS).
Theo ông Trịnh Viết Hoàng Minh, Chuyên viên phân tích mảng vĩ mô và phái sinh, Công ty Chứng khoán ACB (ACBS), tính từ đầu năm đến nay, tỷ giá tăng khoảng hơn 5%, tiếp tục chịu áp lực tăng cao trong quí 4 năm nay và cả năm sau.
Tuy nhiên, điểm tích cực là mức giảm tiền đồng vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, chẳng hạn đồng nhân dân tệ giảm 11%, yên Nhật giảm 21% và won Hàn Quốc giảm 15%. “Thông tin cơ bản khá là tiêu cực nhưng tỷ giá tương đối ổn định”, ông Minh đánh giá.
Theo đại diện từ ACBS, lý do tỷ giá vẫn giữ ổn định trong thời gian qua là nhờ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng linh hoạt các công cụ điều hành.
Ông Minh cũng cập nhật con số quỹ dự trữ ngoại hối hiện ước còn khoảng 86 tỉ đô la Mỹ, tiếp tục giảm gần 4 tỉ đô so với báo cáo của ACBS hồi tháng 9. Trên thực tế, không riêng gì Việt Nam mà nhiều quốc gia khác cũng đã bán đô la Mỹ để bình ổn, như Trung Quốc bán khoảng 250 tỉ đô la trong khi quỹ dự trữ còn khoảng 3.250 tỉ đô la.
Ông Cao Việt Hùng, Trưởng bộ phận Phân tích tài chính của Công ty ACBS, bổ sung thêm, ngoài công cụ bán đô la, từ tháng 6 NHNN cũng liên tục điều tiết trên thị trường để giữ lãi suất liên ngân hàng ở mức cao tương đối so với lãi suất bằng đồng đô la Mỹ, từ đó giảm áp lực dài hạn.
Nếu như mặt bằng lãi suất hồi đầu năm khoảng 1% thì hiện đã lên quanh mức 7%, cao hơn lãi suất đồng đô la Mỹ hiện nay là 3,425%. Ngoài ra, mặt bằng lãi suất trên thị trường dân cư tăng khoảng 1 điểm phần trăm kể từ đầu năm với các ngân hàng lớn, từ 2-3 điểm phần trăm đối với ngân hàng nhỏ. Lãi suất như vậy sẽ tạo ra mức hấp dẫn tương đối để giảm áp lực tỷ giá, giữ sự tương đối ổn định so với các thị trường khác tương ứng, theo các chuyên gia của ACBS.
Các diễn giả của buổi Talkshow đã đề cập đến câu chuyện ngày 24-10, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục nâng tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ lên mức 23.700 đồng/đô la, cao hơn 12 đồng so với cuối tuần trước. Với biên độ giao dịch +/-5% theo tỷ giá trung tâm, giá giao dịch trần – sàn mà các ngân hàng thương mại được phép đưa ra với đồng bạc xanh trong cùng ngày là 22.515 – 24.885 đồng/đô la.
Không chỉ tăng tỷ giá trung tâm, cũng trong phiên 24-10, NHNN tiếp tục tăng mạnh giá bán đô la Mỹ tại Sở giao dịch từ 24.380 đồng/đô la lên 24.870 đồng/đô la, tương đương mức tăng ròng 490 đồng, cao nhất trong nhiều năm qua.
Đáng chú ý, đây đã là lần tăng giá bán đô la Mỹ thứ 6 của NHNN trong năm nay và là lần tăng giá thứ 4 liên tiếp chỉ trong hơn một tháng trở lại đây. So với đầu năm, giá bán đô la Mỹ tại các Sở giao dịch của NHNN đã tăng tới 1.720 đồng, tương đương 7,4%.
Trong bối cảnh nhà điều hành liên tục nâng giá bán đô la Mỹ, giá ngoại tệ này bên ngoài thị trường cũng ghi nhận biến động mạnh nhất trong nhiều năm. Hầu hết ngân hàng thương mại đã nâng giá bán đô la Mỹ lên mức kịch trần 24.885 đồng.
Ông Minh nhận định, tỷ giá tiếp tục chịu áp lực tăng cao trong quí 4 năm nay và cả năm sau.
Cụ thể, ACBS dự báo, tỷ giá có thể sẽ ở vùng 24.800 – 25.500 từ nay đến cuối năm và có thể duy trì quanh vùng này mà không bị mất giá quá nhiều trong năm 2023. Đây là kịch bản cơ bản, tức lạm phát được kiểm soát và Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giữ lộ trình tăng lãi suất như đã đưa ra.
Với kịch bản xấu, Fed buộc phải tăng lãi suất mạnh hơn để kìm lại đà tăng của lạm phát thì có thể dẫn đến tình huống, tỷ giá dao động quanh mức 25.200 – 25.500 đồng/từ nay đến cuối năm, nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không tăng lãi suất trong khoảng thời gian còn lại của năm.
Ở kịch bản thứ ba, tỷ giá bớt áp lực hơn khi NHNN có thể nâng lãi suất thêm 0,5-1 điểm phần trăm.
“Tỷ giá sẽ tiếp tục chịu áp lực trong 6 tháng đầu năm sau. Nếu NHNN có động thái khác như tăng lãi suất hoặc có thêm dòng ngoại tệ chảy vào mạnh như dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hay dòng tiền từ hoạt động xuất khẩu, khách du lịch quốc tế thì tỷ giá sẽ ổn định trong 6 tháng cuối năm 2023. Đến năm 2024, tín hiệu tích cực nhất là dòng vốn đảo chiều về lại Việt Nam sẽ giúp tỷ giá giảm”, ông Minh dự báo.
Hiện tỷ giá tăng đã tác động tiêu cực đáng kể đến thị trường tài chính nói chung và hoạt động kinh doanh, sản xuất của các doanh nghiệp nói riêng.
Trong vai trò nhà phân tích, ông Cao Việt Hùng ghi nhận nhiều câu chuyện về việc lợi nhuận của các doanh nghiệp vay nợ bằng đồng đô la Mỹ đang bị ảnh hưởng, đặc biệt trong bối cảnh lãi vay tăng lên đáng kể. Tương tự, với nhà sản xuất, chi phí nhập khẩu trang thiết bị, máy móc, công nghệ… cũng tăng lên so với trước kia.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường khác ngoài Mỹ cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực vì tiền đồng tăng giá so với các đồng tiền khác trên thế giới, từ đó có thể ảnh hưởng đến nguồn thu.
Những ảnh hưởng tiêu cực này cũng thấy rõ hơn trên thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Theo ông Hùng, trên thị trường chứng khoán, yếu tố dòng tiền là quan trọng nhất nhưng đang bị ảnh hưởng từ việc Fed tăng lãi suất, khiến lãi suất tiền đồng cũng phải chạy theo.
Ngoài ra, việc NHNN can thiệp bằng cách bán dự trữ ngoại hối, hút tiền đồng về đã gây áp lực thanh khoản cho thị trường liên ngân hàng, chứng khoán, trái phiếu và bất động sản. Việc công bố nhiều thông tin sai phạm của các công ty bất động sản trong việc phát hành trái phiếu cũng đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư. “Các thị trường này gần như đóng băng trong thời gian qua”, ông Hùng nhận định.
Theo ông Hùng, những yếu tố tác động tiêu cực đến nguồn cung ngoại tệ là khi lãi suất đô la tăng lên, các doanh nghiệp ở Việt Nam có xu hướng giảm nợ vay bằng đô để giảm áp lực tỷ giá, từ đó tác động tiêu cực đến nguồn cung. Thêm vào đó, theo ước tính không chính thức, lượng kiều hối trong 6 tháng đầu năm chỉ bằng 1/3 so với cùng kỳ cũng tác động không tốt đến nguồn cung.
Tại tọa đàm, cũng có các câu hỏi từ độc giả về mối lo ngại về quỹ dự trữ ngoại hối chỉ còn khoảng 3 tháng nhập khẩu, tức hiện đang nằm ở mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế. Các chuyên gia ACBS cho rằng, đây cũng là điểm hạn chế của chính sách can thiệp giữ ổn định tỷ giá.
Tuy nhiên, ACBS cũng kỳ vọng vẫn còn nhiều công cụ khác để hỗ trợ giữ ổn định tỷ giá. Chẳng hạn, dòng ngoại tệ chảy vào, bao gồm vốn FDI, hoạt động xuất khẩu, du lịch phục hồi, thúc đẩy giải ngân đầu tư công, xây dựng hạ tầng… sẽ có thể bổ sung nguồn thu ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá.
Theo ông Minh, việc giữ ổn định tỷ giá hiện nay cũng có những điểm tích cực khi doanh nghiệp FDI, vốn chiếm 70-80% xuất khẩu và có tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu khoảng 80%, ưu tiên ổn định tỷ giá. Do đó, việc giữ lời cam kết ổn định tỷ giá hiện nay cũng là rất quan trọng thay vì đề xuất tranh thủ phá giá.
Tại buổi tọa đàm, cũng có ý kiến so sánh đến sự khó khăn của thị trường ở giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Tuy nhiên, theo ông Minh, bối cảnh của thị trường tại hai thời điểm là hoàn toàn khác nhau.
Ở giai đoạn 2008, lạm phát lên tới hai con số, lãi suất điều hành vào khoảng 14%/năm, chưa kể đến các chi phí vay bên ngoài nên nền kinh tế không thể nào vận hành tốt trong môi trường lãi suất cao như vậy.
Ngược lại, trong giai đoạn hiện nay, lãi suất điều hành quanh mức 5%/năm, lạm phát kiểm soát dưới 4%. NHNN cũng kiểm soát không cho hệ thống tăng trưởng vượt mức, không cấp mới, nhanh và nhiều như trước nữa mà tùy theo từng tình hình cụ thể của ngân hàng. Tương tự, các yếu tố tích cực như tăng trưởng GDP có thể đạt mức cao nhất 8,5%/năm và năm sau hơn 6% theo các tổ chức lớn dự báo.
“Do đó, với tình hình hiện nay, chúng ta không cần quá lo lắng hay so sánh mốc năm 2008”, ông Minh nói.
Một điểm tích cực của Việt Nam được các chuyên gia ACBS chia sẻ là dòng vốn FDI, xuất nhập khẩu vẫn đang tích cực trong 9 tháng đầu năm. Theo đó, FDI tăng 16% so với cùng kỳ, trong khi xuất siêu được 6 tỉ đô so với nhập siêu năm ngoái.
Ông Minh cũng bổ sung, Việt Nam đang bị chịu áp lực thâm hụt cán cân ngoại tệ từ dịch vụ, tức luồng ngoại tệ đi ra rất lớn, thâm hụt dịch vụ 9 tháng đầu năm khoảng 11 tỉ đô. “Nếu du lịch trở lại và chúng ta có thể tối ưu hóa hoạt động dịch vụ thì cũng có thể giảm áp lực của tỷ giá”, ông Minh nói và cho biết, hiện tại lượng khách du lịch quốc tế chỉ bằng khoảng 1/10 trước dịch Covid-19.
Về nhận định thị trường, các chuyên gia ACBS cho biết, yếu tố cơ bản vẫn là dòng tiền thị trường và định giá, tức lợi nhuận doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, thị trường còn phụ thuộc vào thanh khoản hệ thống nhưng trong dài hạn, triển vọng kết quả kinh doanh vẫn tích cực.
“Đặc biệt kỳ vọng tăng trưởng của doanh nghiệp quí 3 tương đối cao. Đây sẽ là chất xúc tác cho thị trường cổ phiếu trong thời gian tới”, ông Hùng nhận định.
Trong bối cảnh này, các chuyên gia từ ACBS cho rằng, doanh nghiệp và nhà đầu tư cần chuẩn bị kịch bản linh hoạt hơn để ứng phó với tình huống tỷ giá tăng.
Theo đó, các doanh nghiệp nên sử dụng các công cụ quản lý rủi ro tỷ giá nhiều hơn, giữ sự ổn định cho hoạt động kinh doanh. Về dòng vốn kinh doanh, doanh nghiệp có thể giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng và trái phiếu doanh nghiệp.
“Điểm sáng tích cực là tăng trưởng GDP hiện đang ở mức cao và kỳ vọng tiếp tục trong năm sau. Đây sẽ là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp có thể sử dụng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh để tái đầu tư”, ông Hùng chia sẻ.
D. Nguyễn